Công ty khởi đầu với hoạt động gia công gỗ, rồi chuyển qua sản xuất các phụ kiện tàu, máy bay và thủy phi cơ. Những phụ kiện này được sản xuất tại nhà máy Finale Ligure và sau đó là Pontedera (Tuscany). Từ đó, Piaggio trở thành một trong những hãng sản xuất máy bay lớn nhất nhì nước Ý. Vì vậy, những nhà máy Pontedera và Finale đã bị cho vào tầm ngắm quân sự và bị ném bom trong Thế chiến thứ II.
Lịch sử xe Vespa
Những bước đi đầu tiên
Nước Ý bắt đầu vào việc xây dựng lại đất nước sau chiến tranh từ năm 1946, nhà máy Pontedera được xây dựng lại bởi một trong hai người con của ông Rinaldo là Enrico. Enrico đã lựa chọn đường lối kinh doanh mới tập trung vào phát triển phương tiện đi lại cá nhân. Ông đã đạt được mong muốn của mình khi tạo ra một chiếc xe đẳng cấp nhờ biệt tài thiết kế của kỹ sư hàng không ưu tú nhất của mình là Corradino D’Ascanio.”Mẫu đầu tiên của nhà thiết kế tài ba với cái tên “Paperino” (Donald Duck). Ông đã thực hiện nhiều thay đổi trên mẫu này tạo ra cuộc cách mạng về thiết kế như bỏ truyền động bằng xích, bánh xe được điều khiển trực tiếp từ hộp số, cần số đặt trên tay lái, khung xe nguyên khối thiết kế gắn liền với thân xe để bảo vệ người lái. Mẫu MP6 đã được hoàn thành vào tháng 4/1946. Lần đầu tiên nhìn thấy MP6, Enrico Piaggio đã quyết định sản xuất hàng loạt, với tên gọi mới là Vespa 98cc, gồm đầy đủ các tính năng thời thượng như đồng hồ tốc độ, chân chống cạnh và lốp xe viền trắng sành điệu.
Bước ngoặc..
Vượt qua sự hoài nghi, sản lượng xe Vespa tăng vọt từ 2484 xe vào năm đầu tiên lên 19822 xe vào 1948. Piaggio là đơn vị đầu tiên được cấp phép kinh doanh tại Đức, xe Vespa đã đạt doanh số 60,000. Ba năm sau, con số này đã lên tới 171,200 xe và số đại lý Piaggio trên thế giới lên đến hơn 10.000 chi nhánh. Sự phát triển thần kỳ này mới chỉ là khởi đầu cho thời kỳ hoàng kim của xe Vespa sau này: sản xuất tại 13 nước và bán tại 114 quốc gia trên khắp thế giới.Tầm cỡ thế giới
Xe Vespa đạt mốc 1 triệu xe vào năm 1956. Chỉ 4 năm sau đó vào 1956, con số này đã là 2 triệu, và rồi 4 triệu chiếc vào năm 1970 và hơn 10 triệu chiếc trong năm 1988. Đến nay, Piaggio đã bán hơn 18 triệu chiếc xe Vespa. Đóng góp vào thành công rực rỡ này phải kể đến các mẫu xe Vespa huyền thoại như xe Vespa 50 sản xuất năm 1963 và hàng chục mẫu xe Vespa khác những năm sau đó đã nối tiếp những huyền thoại. Mẫu xe Vespa GS 150 ra mắt năm 1955 được coi là mẫu xe “thể thao” đầu tiên đạt đến vận tốc 100 km/h, tiếp theo là mẫu 180 SS năm 1965. Mẫu xe Primavera 125 năm 1968 đã trở thành một trong những biểu tượng của thế hệ mới và ghi dấu vào lịch sử thế giới. Nếu mẫu Rally 180 năm 1968 giới thiệu kiểu đèn pha trước cách tân với thiết kế đầy mạnh mẽ, chiếc Elestart 50 ra mắt hệ thống khởi động bằng điện, thì chiếc Rally 200 năm 1972 được mệnh danh chiếc xe Vespa dành cho những khách lữ hành khám phá thế giới.Đổi mới
Sau thành công vượt trội trước đó, Piaggio quyết định đổi mới dòng xe Vespa cho phù hợp với lối sống và giao thông thành thị. Năm 1976, những chiếc Primavera 125 ET3 được trang bị hệ thống đánh lửa điện tử và 3 cổng nạp. Năm 1978, chiếc P 125 X có thân xe liền khối hoàn toàn mới, trong khi đó chiếc P 200 E sở hữu hệ thống bôi trơn độc lập và bảng thông số điều hướng lần đầu tiên được gắn hẳn vào thân xe.Năm 1984, chiếc PK 125 ra mắt hộp số tự động, cũng là sự thay đổi ngoạn mục nhất kể từ năm 1946. Năm 1985 chiếc Pole Position T5 được biết đến là mẫu “siêu xe thể thao” đầu tiên, với xylanh nhôm hỗ trợ tản nhiệt hiệu quả nhiệt lượng sản sinh do công suất cao của xe tay ga. Năm 1989 chiếc PK N 50 lọt top những chiếc xe chạy tốt nhất “Vespino”– Vespa nhỏ. Năm 1996, chiếc ET4 125 là chiếc xe tay ga Vespa đầu tiên có động cơ trung tâm 4 thì và hộp số tự động, và chỉ hai năm sau đó chiếc này đã trở thành mẫu xe 2 bánh mang thương hiệu Vespa bán chạy nhất ở châu Âu.
Một vài dòng xe Vespa cổ
Từ mẫu xe dung tích 98cc đầu tiên năm 1946 đến Granturismo năm 2003 và Vespa S, 2007, Piaggio đã sản xuất 144 kiểu mẫu, phiên bản và những bản cải tiến khác nhau. Đến khi Vespa ET4 được giới thiệu năm 1996, khoảng 20,000 sự thay đổi trong thiết kế và kỹ thuật đã được tạo ra từ nguyên mẫu đầu tiên năm 1946 với khoảng 1,500 các bộ phận được thay đổi hoàn toàn.Vespa 98, 1946 - Chiếc vespa đầu tiên với dung tích là 98cc và có thể đạt tốc độ tối đa là 60km/h. Chiếc vespa này được sản xuất trong 2 năm 1946: 2,464 chiếc và 1947: 18,079 chiếc.
Vespa 125, 1953 - Chiếc xe đã thay đổi rất lớn về cấu trúc của phần bộ máy: phần piston, phần côn và số tay, tốc độ được cải thiện lên 75 km/h. Phần thiết kế cũng thay đổi một chút về phần đầu xe và bụng xe. Nhưng những nét cong đặc trưng vẫn được giữ nguyên bản so với bản đầu tiên năm 1946.
Vespa 150 GS, 1955 - Các chuyên gia gọi nó là "Phiên bản phổ biến, được sao chép và được nhắc đến nhiều nhất ". Chiếc xe với rất nhiều những cải tiến nổi bật:
dung tích máy tăng lên 150cc, hộp 4 số, yên xe dài, bánh xe 10". Vespa GS có thể đạt tốc độ 100km/h. Thiết kế đã được thay đổi rất nhiều phụ thuộc vào khí độc lực của cơ thế người lái.
Vespa 150GL,1963 - Một thiết kế mới khác biệt với phiên bản 150GS "one of the best-looking vespas produced by Piaggio designers". Khung xe, đèn pha, chắn bùn, bố cục của phần bụng xe và phần yên ngồi hoàn toàn được thay đổi.
Vespa 50, 1964 - Chiếc vespa 50cc đầu tiên, Chiếc vespa này được sản xuất theo những điều luật mới của Italia về điều kiện bắt buộc về bằng lái cho những chiếc xe phân khối lớn. Đây là một chiếc xe vô cùng linh hoạt những cũng chắc chắn và thoải mái. Bộ máy được thiết kế với hình dáng mới với xylanh và piston được đặt nghiêng một góc 45 độ. Có một điều đặc biệt đây là bản thiết kế cuối cùng của nhà thiết kế Corradino D'Ascanio's .
Vespa super Sprint 90, 1966 - Một phiên bản đặc biệt được kết hợp từ phiên bản Vespa 50/90 cc và phiên bản 125. Chiếc vespa này giữ nguyên vị trí giữa phần yên xe và phần trục lái và tăng cảm giảm thoái mái cho người điều khiển. Phần yên được thiết kế thu hẹp và thấp hơn, phần chắn bùn và phần bụng máy được thiết kế cong tăng tính khí độc học. Dung tinh xe là 90cc nên xe có thể đạt vận tốc là 93km/h.
Vespa 125 Primavera, 1968. Cùng với phiên bản vespa PX, Primavera là một trong những phiên bản nổi tiếng nhất của Vespa. Nó được thiế kế dựa theo nguyên mẫu "125" nhưng với những thay đổi khác về phần máy, và cải tiến tốc độ lên thêm 10km/h.
Vespa 180 Rally, 1968. Đây là một chiếc xe hoàn toàn mới, Piaggio đã mở rộng thị trường của mình với mẫu xe Rally này. Phần máy được thay đổi, đèn trước thay đổi và có thể chiếu xa hơn. Phần cấu trúc được thừa hưởng từ chiếc vespa 150 Sprint, thu gọn hơn và nhiều khí độc lực với cơ thể người điều khiển hơn phiên bản Super Sport SS.
Vespa 50 Elestart, 1970. Đây là một phiên bản khá kì lạ và khác biệt được phát triển từ phiên bản Vespa 50 mini.
Vespa P 125 X, 1978. Chiếc "PX" này đã tạo một bước nhảy mới trong thiết kế và vận hành của những chiếc vespa. Trong năm này, P 200 E cũng được sản xuất, phiên bản với những thay đổi về bộ chế hòa khí, phần điều chỉnh dầu và xăng. Ba năm sau đó, PX 150 E được ra mắt, chiếc vespa được kết hợp giữa Vespa P125X và P200E.
Vespa PK 125, 1983. Đây là phiên bản thay thế cho Vespa Primavera( standard và ET3). Phiên bản này vẫn giữ nguyên phần thân "classic" cho thị trường Nhật Bản.
Vespa ET4 125cc, 1996. Phiên bản "Một thế hệ vespa mới" được trình làng vào dịp kỉ niệm 50 năm thành lập của Vespa. Đây là một dự án mới hoàn toàn, nó là chiếc xe vespa đầu tiên dùng động cơ 4 thì. Vespa ET4 được trang bị hộp số tự động và là mẫu xe ga thay thế cho các dòng xe côn tay trước kia của Vespa.
Danh sách tất cả các dòng xe Vespa cổ
Tất cả các dòng xe Vespa cổ, các bạn chịu khó Google Search thêm hình nhéPaperino
Vespa 150 TAP
VNC Super 125
VBC Super 150
VBA 150
VB1 150
VBB 150
125 GT
V9A
VNA
VNB 125
Vespa U - U is for utilitaria (English - economic).
GS 150
GS 160
SS 180
Vespa 90 (3 spd)
Vespa 50 (3 spd)
SS50 (4 spd)
SS90 (4 spd) - 90 SS Super Sprint
150 GL
90 Racer
125 TS
100 Sport
125 GTR
VLB 150 Sprint
VLB 150 Sprint Veloce (Vespa Sprint)
180 Super Sport
Rally 180
Rally 200
125 Nuova (VMA-1T) - Prelude to Primavera
Primavera 125 also ET3 (3 port version)
PK 50
PK 50 XL
PK 50 Roma (Automatic)
50 S
50 Special
50 Special Elestart
50 Sprinter / 50 SR (D)
50 Special Revival (Limited to 3,000 Italy-only numbered units, released in 1991)
COSA 1 - 125 cc, 150 cc, 200 cc
COSA 2 - 125 cc, 150 cc, 200 cc
P 80 / P 80 E (France)
P 80 X / PX 80 E (France)
PK 80 S / Elestart
PK 80 S Automatica / Elestart
PK 100 S / Elestart
PK 100 S Automatica
PK 100 XL
PK 125 XL / Elestart
PK 125 S
PK 125 E
PK 125 Automatica (automatic transmission)
P 125 X
PX 125 E/Electronic
P 200 E
PX 200 E FL
PX 200 Serie Speciale (Limited to 400 UK-only numbered units)
T5 / Elestart (5 port engine 125 cc P series)
T5 Classic (5 port engine 125 cc P series)
T5 Millennium (5 port engine 125 cc P series) (Limited to 400 UK-only numbered units)